Thắng Pháp Abhidhamma
Bài 17
Tâm Tham
http://www.phapluan.net/PhapAm_2020/Thang_8/13-8-2020_ThangPhapAbhidhamma_Bai17TamTham_TTGiacDang.mp3
Tâm tham – lobhacitta – trong Phật học đặc biệt là trong Thắng Pháp Abhidhamma là một thuật ngữ thường được hiểu tương đối hời hợt. Trong đời sống bình thường chữ “tham” chỉ cho sự ham muốn quá đáng, quá độ. Thí dụ người ta cho mình một nhưng vì quá muốn nên tìm cách xin thêm. Trong Phật học đó chỉ là một biểu tỏ thô tháo. Ham muốn chừng mực cũng là tham. Một ý niệm dính mắc cái gì đó cũng là tham. Sự tự hào cũng là nằm trong tâm tham. Sự chấp giữ tư kiến sai lạc cũng nằm trong tâm tham.
a. Phấn khích hay bình đạm. Thí dụ lần đầu ăn được món lạ rất ngon với tâm rất vui (thọ hỷ) nhưng sau nầy được ăn nhiều thì vẫn muốn ăn nhưng tâm bình thản (thọ xã)
b. Đi chung với tà kiến hay không đi chung với tà kiến. Thí dụ một người đánh bắt cá với quan niệm chấp thủ là đó là những thứ trời sanh để nuôi con người nên sự đánh bắt cá là chuyện “thiên kinh địa nghĩa” (tà kiến); còn có người đánh bắt cá đơn thuần vì sinh kế nên không hẳn là đi chung với tà kiến.
c. Có tác động hay không có tác động. Có những tâm tham sanh khởi mau chóng hay mạnh mẽ do thói quen hay bản chất cố hữu đó là thứ tâm tham không có tác động. Trái lại có những thứ tâm tham sanh khởi do sự rũ rê hay xúi giục thì đó là tâm tham có tác động.
(somanassasahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ asaṅkhārikam)
Là tâm ham muốn có phấn khích, đi chung với tà kiến, không cần tác động.
(somanassasahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)
Là tâm ham muốn có phấn khích, đi chung với tà kiến, sanh do tác động.
(somanassasahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ asaṅkhārikam)
Là tâm ham muốn có phấn khích ,không đi chung với tà kiến, không cần tác động
(somanassasahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)
Là tâm ham muốn có phấn khích ,không đi chung với tà kiến, sanh do tác động
(upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ asaṅkhārikam)
(upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)
(upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ asaṅkhārikam)
(upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)
(Vi Diệu Pháp Khái Luận, Narada, bản dịch của Phạm Kim Khánh)
Hai từ vựng tham(lobha) và ái (tanha) là hai thuật ngữ được dùng “chồng tréo” trong Phật học. Ái là thuộc tánh tham; là tập đế hay nguyên nhân của đau khổ; thường được dùng với ý nghĩa “đậm đặt”. Tham thường mang ý nghĩa phổ quát trên bình diện rộng; trong Phật thường dùng là tâm tham, tâm tham ái, tâm ái dục, tâm ái chấp nhưng không nói ngắn là tâm ái.
Chữ sasaṅkhārikam thường được dịch là hữu trợ, hoặc hữu dẫn, hay “bị xúi giục” đều mang ý nghĩa tương đối. Một người muốn ăn cắp đồ gì đó nhưng e ngại phải suy nghĩ một lúc mới ra tay thì là sasaṅkhārikam không nhất thiết phải có ai xúi giục hay có sự hỗ trợ. Nên hiểu là có tác động chứ không sanh khởi lập tức.
Trong sở thích về trang phục có người thích nhiều màu sắc sặc sỡ, có người chuộng màu đơn điệu tối giản. Cả hai đều có dính mắc chứ không có nghĩa là chỉ có người thích nhiều màu sắc mới có ham muốn. Tâm tham là một trạng thái dính mắc đối lập với vô tham. Vô tham được thí dụ như lá sen với nước: tiếp xúc nhưng không lưu lại. Bất cứ sự dính mắc nào cũng là biểu lộ của tham.
Tâm tham là tâm dính mắc đối với cảnh.
Tám thứ tâm tham:
Tâm tham trong biểu đồ chư pháp:
Bài học trước là: Những Tâm Bất thiện
Bài học tiếp theo sẽ là: Tâm Sân
No comments:
Post a Comment