Sunday, August 30, 2020

Thắng Pháp Abhidhamma - Bài 22 Tâm Quả Dục Giới Tịnh Hảo - Chủ Nhật, ngày 30 tháng 8, 2020

 Thắng Pháp Abhidhamma

Giảng Sư: TT Giác Đẳng

Giáo trình Thắng Pháp Abhidhamma NGÀY  30/8/2020 

Bài 22

 Tâm Duy Tác Dục Giới Tịnh Hảo

Tâm duy tác dục giới tịnh hảo là tâm hành xử của chư vị a la hán đã đoạn tận phiền não, kể cả Đức Phật toàn giác. Giống như tâm thiện dục giới tịnh hảo đây là thứ tâm đa nhiệm của các bậc không còn lậu hoặc. Ngoài những lúc nhập thiền các Ngài sử dụng tâm duy tác dục giới tịnh hảo cho những sinh hoạt hằng ngày kể cả hạnh nguyện độ sanh như thuyết pháp, họp Tăng, khất thực trì bình… Sự trình bày tâm duy tác dục giới tịnh hảo cho chúng ta biết nhiều về tâm thái của chư vị thánh nhấn hoàn toàn giải thoát, một điều rất khó hiểu hết đối với phàm nhân .

 Hai thứ tâm duy tác

 Có thứ tâm duy tác vô nhân chỉ đóng vai trò cơ năng là hai tâm khán ngũ môn và tâm khán ý môn mà phàm hay thánh đều có.  Tâm sinh tiếu cũng là duy tác vô nhân. Các tâm duy tác hữu nhân có vai trò xử lý cảnh của bậc vô lậu. Riêng tám tâm duy tác dục giới hữu nhân có thể nói là đóng rất nhiều vai trò. Chữ dục giới ở đây chỉ để nói là thứ tâm không thuộc về thiền sắc và thiền vô sắc.

 Còn hạt nhưng mầm đã chết

 Tâm phàm phu khi xử lý cảnh dùn bằng tâm thiện hay bất thiện đều tạo quả nếu gặp điều kiện thích hợp bởi vì còn nằm trong vòng cương toả của vô minh và ái. Chư vị vô lậu ứng cúng vì không còn vô minh và ái nên tất cả hành xử đều không tạo quả tốt xấu. Tất nhiên các Ngài không làm những việc bất thiện như sát sanh, trộm cắp.. ngay cả khi làm có việc lành như thuyết pháp, lễ Phật… cũng không tạo “quả tốt”. Pháp sư Giác Chánh đề cập điều nầy dùng thí dụ như hột bắp đã luộc trước khi phơi khô có gieo xuống thì cũng không mọc cây bắp khác vì mầm đã chết. Kinh Pháp Cú có Phật ngôn mô tả điều nầy như chim trời rời ao hồ không để lại dấu vết.

 Thọ hỷ và thọ xả

 Các bậc hoàn toàn giải thoát vẫn có tâm thọ hỷ như sự hân hoan rất tế nhị không nên hiểu theo cách “phấn khích” của phàm tâm. Tâm thọ xả điềm đạm của các Ngài là thứ tâm trưởng thành không còn vị cảnh chi phối rất khác với sự vô tư lự của phàm phu. Rất nhiều trường hợp ghi lại tâm thái của tôn giả Sàriputta khi cảm kích trí tuệ siêu việt của Đức Phật hay một vị A La Hán hoan hỷ với sự tịnh lạc của đời sống sa môn so với hạnh phúc cung đình của thời còn là một vương gia. Các Ngài hoan hỷ nhưng không mang sự phấn khích thường tình.

 Hợp trí và ly trí

 Thời Đức Thế Tôn tại thế có vị giáo chủ đạo Jain là Nigantha Natàputta tuyên bố là trí tuệ siêu đẳng của mình luôn hiện hữu cả ngày lẫn đêm. Đức Phật dạy một bậc đại giác chỉ dùng trí khi cần chứ không phải trong toàn thời gian đi đứng nằm ngồi đều dùng đến. Thí dụ một người rất giỏi tiếng Pháp không phải cả 24 giờ đều dùng khả năng nói tiếng Pháp trôi chảy. Chính vì vậy chư vị A La Hán có những khoảnh khắc dùng tâm ly trí. Nhưng không có nghĩa là thiếu trí.

 Vô trợ hay hữu trợ

 Phản ứng nhanh chậm của các vị vô lậu giải thoát không thuộc tâm mạnh hay tâm yếu hoặc cần tác động hay không cần tác động. Đơn giản là có những việc cần suy xét. Có những chuyện Đức Phật trả lời sau ba lần thỉnh cầu không có nghĩa là Ngài suy nghĩ chậm thí dụ câu “Như lai nói pháp cẩn trọng chức không phải không cẩn trọng”

 Phật dữ Phật tri, thánh dữ thánh tri

 Cho dù có nhiều chi tiết được trình bày nhưng không có nghĩa vì vậy phàm nhân có thể biết rõ tâm thái của các bậc hoàn toàn giải thoát. Có thể tạm thí dụ một em nhỏ trong gia đình đông con rất khó hiểu hết tâm trạng của bà mẹ với tình thương chan hoà. Giai tầng nào hiều giai tầng đó. Ngay cả các bậc thánh tầng thấp không hiểu rõ tâm các bậc thánh tầng cao hơn.

 Tám tâm duy tác dục giới tịnh hảo

 Giống như tâm thiện dục giới tịnh hảo, tâm duy tác dục giới tịnh hảo được chia thành tám dựa trên ba yếu tố: thọ hỷ hay thọ xả, hợp trí hay ly trí, vô trợ hay hữu trợ.

 1. Tâm duy tác thọ hỷ hợp trí vô trợ (somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)

2. Tâm duy tác  thọ hỷ hợp trí hữu trợ (somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam) )

 3. Tâm duy tác  thọ hỷ ly trí vô trợ (somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikam)

 4. Tâm duy tác  thọ hỷ ly trí hữu trợ  (somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)

 5. Tâm duy tác  thọ xả hợp trí vô trợ  (upekkhsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)

 6. Tâm duy tác  thọ xả hợp trí hữu trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)

 7. Tâm duy tác  thọ xả ly trí vô trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikam)

 8. Tâm duy tác thọ xả ly trí hữu trợ (upekkhāsahagataṃñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)  


Thuật ngữ kiriya citta ở đây dịch là tâm duy tác mang ý nghĩa là “chỉ có hành động nhưng không có quả báo”. Dịch như vậy không hoàn toàn ổn thoả khi định nghĩa các tâm duy tác vô nhân có nghĩa là chỉ làm việc máy móc chứ không tạo quả.  Ngày xưa Ngài Tịnh Sự dịch kiriya citta là “tâm hạnh” hay “tâm đại hạnh” chỉ cho hành xử của các bậc ứng cúng. Chữ hạnh rất đẹp đó giống như trong “hạnh nguyện” = chỉ sống vì cuộc đời không vì tự ngã. Nhưng chữ nầy cũng lấn cấn với tâm duy tác vô nhân như nói trên. Về sau nầy Ngài chọn chữ “tâm tố”.  Chữ tố  (做) cũng chỉ cho hành động đơn thuần như tố nhân là làm người. Trên phương diện văn tự thì chữ nầy có thể nói là gần nhất để dịch từ vựng kiriya. Giáo trình nầy chọ chữ tâm duy tác thay vì tâm tố vì dễ nhớ, dễ hiểu hơn đối với phần đông.


Tam Tạng Pàli không có đoạn nào nói là một bậc hoàn toàn giải thoát lại có sở hành trái với đời sống hiền thiện như quan niệm “bồ tát nghịch hành” trong Phật giáo Bắc Truyền qua một số hình ảnh như Tế Điên Hoà Thượng hay chuyện thiền sư Nam Tuyền chém mèo (Nam Tuyền trảm miêu). Những câu chuyện mang tinh thần “phương tiện thiện xảo để đời” như vậy là cách nói cao độ về tình thần phá chấp của Phật giáo Đại thừa. Một vài chi tiết ghi lại về những vị a la hán còn có thói quen nhỏ nhặt từ nhiều kiếp quá khứ trong kinh điển Pàli có thể được xem là không gì “đáng nói” so với Phật giáo Bắc Truyền.

 

Một người có thể rất thông thạo về niêm luật làm thơ nhưng không có nghĩa là có thể làm được những áng thơ tuyệt tác. Sự cảm thụ và khả năng phô diễn bằng ngôn ngữ của những thi hào không đơn giản cho một người không cùng trình độ cảm nhận được. Tâm thái các bậc vô lậu giải thoát cũng vậy. “Không phải a la hán rất khó để phân biệt ai là a la hán thật sự:.


Tâm duy tác dục giới tịnh hảo là tâm hànn xử của chư vị a la hán. Chỉ có hành động chứ không tạo quả vì không còn bị chi phối bởi vô minh và ái.

 Cũng như tâm thiện dục giới tịnh hảo, tâm duy tác dục giới là thứ tâm đa nhiệm. Tâm nầy làm nhiều việc, biết nhiều cảnh và có mặt trong nhiều cõi.

 Những trạng thái thọ hỷ thọ xả, hợp trí ly trí, vô trợ hữu trợ trong tâm của các bậc ứng cần được hiểu là rất tế nhị không giống như thường tình.


Tâm duy tác dục giới trong biểu đồ chư pháp:

Tám tâm duy tác dục giới tịnh hảo:


Bài học trước là: Tâm Quả Dục Giới Tịnh Hảo

Bài học tiếp theo sẽ là: Tâm Sắc Giới



II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành

        
      Thảo luận 1. Nếu chư vị a la hán trong tất cả sở hành đều không tạo quả thì chúng ta hiểu thế nào trường hợp Ngài Xá Lợi Phất tạo phước hồi hướng cho người mẹ của kiếp quá khứ? -TT Pháp Tân

       Thảo luận 1. Nếu chư vị a la hán trong tất cả sở hành đều không tạo quả thì chúng ta hiểu thế nào trường hợp Ngài Xá Lợi Phất tạo phước hồi hướng cho người mẹ của kiếp quá khứ? - TT Tuệ Siêu 


      Thảo luận 2. Chư vị A la hán đã vượt ngoài mọi thiện ác nhưng tại sao các ngài còn tuân thủ những giới luật được Đức Phật ban hành? - TT Pháp Tân 

        Thảo luận 3. Thọ hỷ có phải làm cảm giác do sự phân biệt tốt xấu, cao thấp? Chư vị hoàn toàn giải thoát còn có tâm phân biệt như vậy? - TT Tuệ  Quyền 

       Thảo luận 4. Câu hỏi mùa Vu Lan: Chư vị A la hán, kể cả Đức Phật, vẫn còn thể hiện hiếu hạnh bằng cách nghĩ tưởng đến phụ mẫu hiện tiền hay quá vãng như vậy có phải là sự phân biệt thân sơ đối với chúng sanh? - TT Pháp Đăng 

 III Trắc Nghiệm

Thursday, August 27, 2020

Thắng Pháp Abhidhamma - Bài 21 Tâm Quả Dục Giới Tịnh Hảo - Thứ Năm, ngày 27 tháng 8, 2020

 Thắng Pháp Abhidhamma

Giảng Sư: TT Giác Đẳng

Giáo trình Thắng Pháp Abhidhamma NGÀY  27/8/2020 

Bài 21

 Tâm Quả Dục Giới Tịnh Hảo

Tâm quả dục giới tịnh hảo là tâm được tạo thành bởi tâm thiện dục giới tịnh hảo theo cách “thành quả” chứ không phải là “hệ quả”. Chính vì vậy tâm nầy có trạng thái gần giống như tâm thiện. Điều nầy có nghĩa là nếu nhân là tâm thiện thọ hỷ, hợp trí, vô trợ thì tâm quả sở tạo cũng mang những thuộc tánh tương tự. Tuy vậy gọi là gần giống có nghĩa khi tâm thiện có những năm thuộc tánh chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, bi, tuỳ hỷ thì tâm quả không có năm thuộc tánh đó (…). Để hiểu rõ những gì vừa nêu nên lưu ý vài điểm sau:

 Có sự khác biệt giữa hệ quả, hậu quả và thành quả.

 Tâm quả cũng được dịch là tâm dị thục; nói cho đủ là dị thời nhi thục nghĩa là trổ quả khác thời gian.

 Một người làm việc lành, trong lúc đang làm tâm hân hoan đó là sự hưởng thụ quá trình. Tâm hân hoan đó không gọi là tâm quả dị thục.

 Một người làm việc lành thường xuyên tạo thành thường nghiệp. Tâm quen làm đó không gọi là tâm quả dị thục.

 Một người làm việc lành được nhiều người mến mộ nên tâm an lạc. Tâm an lạc đó không gọi là tâm quả dị thục.

 Một người làm việc lành; do nghiệp lành tạo thành sanh báo nghiệp. Khi kiếp sống hiện tại chấm dứt thì kiếm sống mới bắt đầu. Tâm khởi đầu là tâm tục sinh; tâm tục sinh nầy mang trạng thái giống như tâm thiện. Thí dụ làm thiện với tâm thọ hỷ, hợp trí, vô trợ thì tâm quả tục sinh của mang ba đặc tánh như vậy (tâm quả dục giới tịnh hảo không có các thuộc tánh giới phần và vô lượng phần như tâm thiện (….) điều nầy sẽ được nói chi tiết ở các bài học sau). Tục sinh bằng tâm gì thì tiềm thức trong cuộc (hộ kiếp) sống bằng thứ tâm đó và tử cũng bằng thứ tâm đó. Tâm quả dục giới tịnh hảo căn bản đóng ba vai trò: tục sinh, tiềm thức và tử. Ngoài ra những tâm quả nầy còn đóng vai trò của dư hưởng trong tiến trình tâm và đôi khi  đóng vai trò “bán tiềm thức, bán hoạt thức (āgantukabhavaṅga) mà Ngài Tịnh Sự dịch là hộ kiếp khách.

 Những tâm quả dị thục có hai một là tâm quả dị thục vô nhân gồm có tâm ngũ quan và các tâm cơ năng khác như tiếp nhận, quan sát. Những tâm nầy cũng sanh do nghiệp quá khứ nhưng quả nghiệp có năng lực tạo thành những hiện tượng ngoại giới như sắc, thinh, khí, vị, xúc trong lúc các tâm quả dục giới tịnh hảo là những “dấu ấn nội tâm”. Điều nầy là một trong những điểm tinh tế về nghiệp báo chỉ có thể tìm thấy trong Thắng pháp Abhidhamma.

 Vai trò của tiềm thức trong cuộc sống

 Muốn hiểu tâm quả dục giới tịnh hảo thì cần phải hiểu vai trò của tiềm thức. Thắng Pháp Abhidhamma nêu rõ tục sinh bằng tâm nào thì tiềm thức và tâm tử cũng là thứ tâm đó. Nói cách khác tuy ba vai trò những cũng chỉ là một thứ tâm.

 Một người sanh bằng tâm quả dục giới tịnh hảo thọ hỷ, hợp trí, vô trợ thì tiềm thức trong đời sống hằng ngày cũng mang những thuộc tánh giống vậy. Tiềm thức thọ hỷ thì biểu hiện cả tánh vui tươi; tiềm thức thọ xả thì cá tính điềm đạm. Tiềm thức hợp trí thì có tư chất mẫn tiệp; tiềm thức ly trí thì tư chất thiếu thông minh. Tiềm thức vô trợ thì phản ứng nhanh lẹ; tiềm thức hữu trợ thì phản ứng chập chạp. Như vậy tiềm thức tạo nên cá tánh và cá tánh có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đời sống hành ngày. Một người tục sinh bằng tâm ly trí (thiếu căn vô si) thì không thể đắc thiền, đắc đạo quả được. Như vậy tiềm thức có ảnh hưởng lớn tới sinh hoạt hằng ngày mặc dù không phải tất cả hoạt thức đều do chịu ảnh hưởng tiềm thức.

 Tám thứ tâm quả dục giới tịnh hảo.

Cũng như tâm thiện dục giới tịnh hảo, tâm quả dục giới tịnh hảo được chia thành tám dựa trên ba yếu tố: thọ hỷ hay thọ xả, hợp trí hay ly trí, vô trợ hay hữu trợ.

 Từ ba yếu tố trên tạo nên tám thứ tâm thiện dục giới tịnh hảo:

 1. Tâm quả thọ hỷ hợp trí vô trợ (somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)

 2. Tâm quả thọ hỷ hợp trí hữu trợ (somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam) )

 3. Tâm quả thọ hỷ ly trí vô trợ (somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikam)

 4. Tâm quả thọ hỷ ly trí hữu trợ  (somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)

 5. Tâm quả thọ xả hợp trí vô trợ  (upekkhsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikam)

6. Tâm quả thọ xả hợp trí hữu trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikam)

 7. Tâm quả thọ xả ly trí vô trợ (upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikam)

8. Tâm đại thiện thọ xả ly trí hữu trợ (upekkhāsahagataṃñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikam)  

 Do bốn vai trò của tâm quả dục giới tịnh hảo những tâm nầy chỉ có trong cõi dục (trong lúc tâm thiện dục giới tịnh hảo có mặt trong 30 cõi hữu tâm)


Chữ vipāka cittta thường dịch là tâm quả còn gọi là tâm dị thục (dị thời nhi thục) là thành quả hoàn chỉnh của tác nhân thí dụ gieo hột cam mọc thành cây cam. Cây cam không là quả mà phải trổ hoa, kết trái. Trái cam chính là quả dị thục.


Một khái niệm rất phổ thông trong Phật học Hán ngữ là chánh báo và y báo. Trong cách so sánh tương đối thì chánh báo là tương đồng với các tâm quả tục sinh, tiềm thức tạo nên cá tính, chủng loại và trì nghiệp của chúng sanh. Trong lúc y báo có phần tương đồng với những tâm quả vô nhân khác như các tâm ngũ quan. Tuy nhiên trong Thắng Pháp những tâm quả hữu nhân không có sự chi phối trực tiếp, mặc dù có liên hệ, đối với các tâm quả vô nhân. Thí dụ một người sanh ra thông minh đĩnh đạt là một chuyện mà giàu có phú túc may mắn là một chuyện khác. Cá tánh có ảnh hưởng cuộc sống nhưng không có một cá tánh nào bảo đảm cho tất cả thành công danh lợi, tiện nghi..

Hai người cùng học ngoại ngữ. Một người có căn bản văn hoá và ngôn ngữ mẹ đẻ thì sự cảm nhận khác với một người không có căn bản trình độ. Tiềm thức tuy không chi phối hoàn toàn hoạt thức như có ảnh hưởng không nhỏ về thái độ lạc quan, mẫn tiệp, ứng đối bặt thiệp…


Tâm quả là tâm tạo nên bởi tâm thiện qua quá trình hoàn chỉnh như từ hạt gieo tới lúc trổ quả và trong quả có hạt.

 Tâm quả dục giới tịnh hảo mang những đặc tính tương đồng với tâm thiện qua các yếu tố thọ hỷ hay thọ xả, hợp trí hay ly trí, vô trợ hay hữu trợ. Điều thú vị là các tâm bất thiện không tạo tâm quả với trạng thái tương đồng.

 Tâm quả trong vai trò tiềm thức có những chi phối nhất định đối với hoạt thức thí dụ tiềm thức là tâm quả ly trí thì không thể nào tu tập chứng thiền, đắc đạo quả.


TÂM QUẢ DỤC GIỚI trong biểu đồ chư pháp:




Tám tâm quả dục giới tịnh hảo:


Một minh hoạt về tiềm thức và hoạt thức:


Bài học trước là: Tâm Thiện Dục Giới Tịnh Hảo

Bài học tiếp theo sẽ là: Tâm Duy Tác Dục Giới Tịnh Hảo



II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành

        


 III Trắc Nghiệm