Sunday, September 27, 2020

Thắng Pháp Abhidhamma - Bài 29 Các Thứ Tâm Đạo - Chủ Nhật, ngày 27 tháng 9, 2020

 Thắng Pháp Abhidhamma

Giảng Sư: TT Giác Đẳng

Giáo trình Thắng Pháp Abhidhamma NGÀY  27/9/2020 

Bài 29

 Các Thứ Tâm Đạo (Maggacitta)

 Có bốn thứ tâm đạo là tâm sơ đạo, tâm nhị đạo. tâm tam đạo, và tâm tứ đạo. Mỗi thứ tâm có năm tâm y cứ trên các thiền chứng là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, ngũ thiền. 4 nhân cho 5 thành 20 tâm đạo. Ngay cả một vị không tu tập thiền chỉ samatha khi đắc đạo thì tâm cũng tương tương với tâm sơ thiền.


Ở đây cách gọi  tâm sơ đạo, tâm nhị đạo. tâm tam đạo, và tâm tứ đạo là cách gọn để nói nhưng nên hiểu khi nói chính xác theo thuật ngữ Pàli thì không phải vậy. Một điểm rất đáng lưu ý là khi những dịch giả ngày xư dịch Kinh Phật từ Phạn ngữ ra Hán ngữ như các Ngài Cưu Ma La Thập, An Thế Cao, Huyền Tráng.. có những từ vựng mang nhiều ý nghĩa Phật học quan trọng thì thường các Ngài chọn cách phiên âm như namo > nam mô thay vì dịch là kính lễ. Trong trường hợp các tâm đạo được phiên âm là tu đà huờn, tư đà hàm, a na hàm, a la hán cũng do những ý nghĩa đặc biệt mà chữ dịch không chuyển tãi hết ý nghĩa. Người học cần lưu ý biểu đồ dưới đây:


TỪ PÀLI  PHIÊN ÂM DỊCH NGHĨA NGẮN GỌN

Sotāpattimagga Tu đà huờn đạo Nhập lưu, Dự lưu Sơ đạo

Sakadāganimagga Tư đà hàm đạo Nhất lai Nhị đạo

Anāgamimagga A na hàm đạo Bất lai Tam đạo

Arahattamagga A la hán đạo Ứng cúng Tứ đạo



Trong buổi sơ thời của Phật giáo Trung Hoa bốn tầng đạo quả vẫn được xem trọng nên trong dịch thuật rất chi tiết. (Về sau nầy với sự cực thịnh của Tịnh Độ Tông và Bồ Tát Hạnh những đạo quả nầy không còn được xem là điểm hướng tới của người Phật tử Đại thừa)


1) Tâm sơ đạo hay tu đà huờn đạo (Sotāpattimaggacitta)


Chữ sotāpatti (sotāpatti > sota + ā +patti) nghĩa đen là là “lần đầu nhập vào dòng chảy” dịch là nhập lưu hay dự lưu chỉ cho một chúng sanh lần đầu chứng tri níp bàn và không bao giờ thối chuyển hay trở lại trạng thái của phàm nhân trước kia. Tuy thấp nhất trong bốn đạo nhưng đặc biệt quan trọng vì là sự chuyển dịch từ phàm sang thánh.


Tâm sơ đạo có những khía cạnh cần nhớ:


Chứng tri níp bàn là biết cái chưa từng biết


Nibbàna (níp bàn hay niết bàn) là pháp vượt ngoài pháp hữu vi. Lần đầu một chúng sanh thật sự chứng tri nibbàna là sự thấy biết điều chưa từng thấy biết trước kia. Trạng thái nầy  - cũng được gọi là vị tri quyền – có một tác động cực mạnh đối với đời sống. 


Khi thật sự “thấy biết” thì không còn tà kiến chấp ngã, hoài nghi, hành trì tà vạy


Ba kiết sử thân kiến (Sakkāyadiṭṭhi), nghi hoặc (Vicikicchā), giới cấm thủ (Sīlabataparānāna) được gọi là những pháp đoạn trừ do thấy (dassanena pahātabbā dhammā) là những sợi dây trói buộc mà tâm đạo dự lưu  đoạn trừ do lần đầu tiên thấy biết níp bàn.



Thấy níp bàn cũng là liễu tri sanh tử


Cảnh của tâm đạo tu đà huờn  là níp bàn nhưng cùng lúc cũng là pháp nhãn thấu triệt hiện tượng sanh tử “cái gì có sanh thì ắt phải diệt”. Có thể thể tạm hiểu như người thấy được ánh sáng có nghĩa là hiểu được bóng tối là bóng tối. Một số các học giả gọi đây là “bất nhị môn”.


Tam bảo không đơn thuần là tín lý tôn giáo


Phàm nhân quy ngưỡng Tam Bảo thường dựa trên tín lý tôn giáo. Niềm tin Tam Bảo của vị thánh tu đà huờn xác lập y cứ trên pháp nhãn thanh tịnh. Vị ấy thật sự hiểu được chân tướng vô thường, bất toàn, vô ngã của các pháp. Từ điểm đó tin tưởng trọn vẹn ở pháp, ở bậc giác ngộ tuyên lưu chánh pháp, và chúng tăng hành trì lời Phật dạy. 


Những cái “không bao giờ” một khi đã chứng tu đà huờn đạo


Bậc chứng sơ đạo không bao giờ tái sanh trở lại cõi dục giới quá bảy lần. Vị nầy không bao giờ tạo các ác nghiệp như phạm ngũ giới và huỷ báng Tam Bảo. Vị nầy vĩnh viễn không rơi vào ác đạo. Vị nầy không bao giờ sống với tà kiến. Vị nầy không bao giờ có hành vi khuất lấp che đậy. 


2) Tâm nhị đạo hay tư đà hàm đạo (Sakadāganimaggacitta).


Là bậc liễu chứng nibbàna lần thứ hai. Do sự lập lại nầy khíến hai kiết sử là dục ái (Kāmarāga) và sân hận (Patigha) giảm nhẹ hay chỉ còn lại một cách vi tế. 


Nói về ba thứ ái là dục ái, sắc ái và vô sắc ái thì dục ái hay nhiễm đắm với ngũ dục là tập khí bền chặt nhiều đời nên không đơn giản một lần mà đoạn tận. Đây là thứ kiét sử dai dẳng. 


Có dục ái thì có sân hận. Đây là cặp bài trùng. Dục ái giàm nhẹ thì sân hận giảm nhẹ. Dục ái đoạn tận thì sân hận không còn.


Một vị chứng tư đà hàm đạo chỉ sanh trở lại cõi dục giới tối đa một lần nên gọi là bậc nhất lai.


3) Tâm tam đạo (Anāgamimaggacitta).


Là bậc liễu chứng nibbàna lần thứ ba. Sự chứng đạt nầy đoạn tận hoàn toàn dục ái và sân hận Tâm thái vị nầy hoàn toàn vượt khỏi ma lực của ngũ dục nên không bao giờ tái sai vào cõi dục giới do vậy là là bậc bất lai.


Một vị thánh A na hàm có thể sống đời cư sĩ nhưng sống tự nhiên theo tám giới bát quan trai. Một bậc chứng a na hàm và thiền phi tưởng phi phi tưởng có khả năng nhập diệt thọ tưởng định.



4) Tâm tứ đạo (Arahattamaggacitta)


Là bậc liễu chứng nibbàna lần thứ tư. Đoạn tận tất cả kiết sử. Viên mãn giác ngộ không cò mầm móng của vô minh và ái dục. Vị nầy đoạn tận năm thượng phần kiết sử là ái sắc, ái vô sắc, mạn, phóng dật và vô minh.


Thắng Pháp Abhidhammma nêu rõ tất cả bậc hoàn toàn giải thoát, kể cả Đức Phật toàn giác đều đi qua trình tự các thánh đạo nhưng có vị rất nhanh như Đức Phật và có vị rất chậm như vua Bimbirasa chẳng hạn. Bậc chứng rất nhanh trong khoảnh khắc thành tựu quả vị viên giác. Bậc chứng chậm có thể luân chuyển nhiều đời trong nhiều cõi.



 Thuật ngữ Arahan âm là a la hán là một trùng hợp thú vị giữ ngữ và nghĩa. Dù trong Phật giáo hay Bà la môn giáo đều có hàm nghĩa: “bậc xứng đáng cúng dường vì hoàn toàn thanh tịnh”. Người Trung Hoa dịch cô đọng là bậc Ứng Cúng. 


Trên phương diện văn tự thì có hai cách giải phổ thông arahan từ chữ arahati = xứng đáng; một cách giải khác theo chiết tự thì arahan là từ kép của hai chữ ari (kẻ thù)+ han (giết). Người Trung Hoa dịch là Sát Tặc tức đoạn tận phiền não. Hai cách giải tự khác nhau nhưng nhập chung thì tạo thành một định nghĩa hoàn hảo: “bậc xứng đáng cúng dường vì hoàn toàn thanh tịnh”


Thú vị nhất là cả hai từ Ứng Cúng và A la hán đề từ Phạn ngữ Arahan. Ứng cúng là chữ dịch, a la hán là phiên âm. Nhưng Phật giáo Đại thừa Trung Hoa xưng tán Đức Phật là bậc Ứng cúng và xem các vị a la hán là độn căn tiểu thừa (…)



  Thắng Pháp Abhidhammma nêu rõ tất cả bậc hoàn toàn giải thoát, kể cả Đức Phật toàn giác đều đi qua trình tự các thánh đạo nhưng có vị rất nhanh như Đức Phật và có vị rất chậm như vua Bimbirasa chẳng hạn. Bậc chứng rất nhanh trong khoảnh khắc thành tựu quả vị viên giác. Bậc chứng chậm có thể luân chuyển nhiều đời trong nhiều cõi.


 Khi chúng ta đến thăm một thành phố lớn như Syney, Paris nếu đi một lần thì cũng gọi là có đến, có biết nhưng phải đi nhiều lần mới thật sự biết rõ. Sự chứng tri Níp bàn cũng vậy. Sự tái diễn bốn lần qua các tâm đạo với khả năng và ảnh hưởng khác nhau cho thấy giá trị quan trọng của sự lập lại.


 


Tâm đạo có bốn: tu đà huờn đạo, tư đà hàm đạo, a la hán đạo


Tâm đạo trong cách gọi ngắn gọn hay phiên âm hoặc dịch nghĩa đều có những lợi ích cho người học cần lưu tâm.


Khi học về tâm đạo cần hiểu rõ mười kiết sử - những thứ phiền não cột trói chúng sanh.


Bốn tâm đạo là sự thể hiện của cả hai vipassana và samatha nên bốn đạo nhân năm thiền thành 20 tâm đạo.




Bốn tâm Đạo- maggacitta-  trong biểu đồ chư pháp:




Những điều đã nói và những điều sắp nói

Bài học trước là: Tâm Đạo

Bài học tiếp theo sẽ là: Tâm Quả Siêu Thế



II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành

T
     Thảo luận 1. Xin giải thích tại sao trong cùng khoảnh khắc lại có thể chứng tri níp bàn, xoá tan thân kiến chấp ngã, nhận rõ chân tướng cái gì có sanh ắt bị hoại diệt? - TT Tuệ Siêu

      Thảo luận 2. Xin giải thích tại sao trong Thắng Pháp nêu rõ tất cả chư vị a la hán đều đã trãi qua những chứng đắc sơ đạo, nhị đạo, tam đạo dùng rất nhanh chóng? Nếu căn cơ đầy đủ sao không thể “nhảy vọt bỏ lớp” mà phải theo trình tự? - TT Tuệ Siêu

      Thảo luận 3. Xin giải thích tại sao sự đắc đạo, chứng quả không phải là sự ban phong của Đức Phật cho những người hữu duyên, hữu chí? - TT Tuệ Siêu

      Thảo luận 4. Xin giải thích tại sao đạo quả có cao thấp, nhanh chậm nhưng níp bàn lại không khác biệt? Nếu sự giải thoát tối hậu giống nhau thì tại sao “phải tu nhiều cho mệt”? - TT Tuệ Siêu

      Thảo luận 5. TT Giác Đẳng đúc kết phần thảo luận


 III Trắc Nghiệm

Thursday, September 24, 2020

Thắng Pháp Abhidhamma - Bài 28 Tâm Đạo - Thứ Năm, ngày 24 tháng 9, 2020

 Thắng Pháp Abhidhamma

Giảng Sư: TT Giác Đẳng

Giáo trình Thắng Pháp Abhidhamma NGÀY  24/9/2020 

Bài 28

 Tâm Đạo (Maggacitta)

 Tâm siêu thế - lokuṭṭaracitta – có hai thứ: tâm đạo (maggacitta) và tâm quả (phalacitta).

 Chữ đạo - magga – trong tâm đạo là một đề tài lớn trong Phật học và tôn giáo Đông phương.

 Chữ “đạo” có nghĩa đen là con đường. Các học giả đồng ý là thuật ngữ nầy được văn học Sanskrit dùng với chữ mārga có thể xem là cổ xưa nhất. Hơn 25 thế kỷ trước Đức Phật dùng chữ nầy với ý nghĩa mang nhiều khác biệt. Trong văn hoá Ấn, cụ thể hơn là Bà la môn giáo, mārga hay đạo dùng để chỉ cho phương pháp tu hành để thành tựu quả chứng nào đó thí dụ pháp khổ hạnh hoặc pháp du già được xem là mārga. Hãy thử tìm hiểu một số khía cạnh sau để thấy sự khác biệt giữa Phật giáo và Bà la môn giáo trong ý nghĩa của chữ magga (đạo)

 Con đường dẫn tới hòn núi nhưng hòn núi không phải là thành quả của con đường

 Trong ý nghĩa uyên nguyên, đạo là con đường. Hướng đi vượt thoát đó dẫn đến liễu chứng níp bàn (hay niết bàn) nhưng níp bàn tuyệt đối không phải là sở tạo của đạo do ba ý nghĩa: Cái gì bị tạo thì cái đó nằm trong định lý “có sanh ắt có diệt” trong lúc níp bàn là vô vi; thứ đến tất cả sản phẩm đều nằm trong hữu hạn của sáng tạo chủ vì vậy nếu níp bàn là quả của tâm đạo thì không thể hơn vượt khỏi hạn cuộc của tâm đạo; sau cùng níp bàn vượt khỏi tất cả phạm trù của thiện ác, nhân quả, thời gian không gian, trạng thái nầy không thể là sở tạo của tất cả những gì thuộc hữu vi pháp.

 Tâm đạo là đích điểm chí thiện nhưng không phải là con đường hành thiện

 Trong Bà la môn giáo (tức là nói đến văn học Sanskrit) thì đạo có nghĩa là phương pháp tu hành, nói cách khác là tu thân hành thiện. Ý nghĩa đó hoàn toàn khác với những gì đề cập ở đây. Tâm đạo không phải là tâm tu tập mà là kết tinh của sự tu tập. Thắng pháp Abhidhamma gọi tâm đạo là tâm thiện siêu thế (lokuttarakusalacitta). Đây là trạng thái chí thiện. Một vị sau khi đoạn tận phiền não không còn sống trong phạm trù thiện ác.

 Tâm đạo, nói cho đủ, là tâm kết tinh tổng lực của tám chi đạo

 Nếu phải định nghĩa chính xác thì tâm đạo là tâm kết tinh của tám chi đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Tám pháp nầy được huân tu trong hành trình tu tập là một hình thái khác (…) nhưng khi kết tụ trong tâm đạo là một thể hiện trọn vẹn của những tố chất vi diệu nhất. Thí dụ như một người đàn ông lịch lãm xuất hiện trong một dạ hội tự thân toát ra tư cách, phẩm chất, kiến văn, cung cách cao quý. Tất cả những tố chất đó là sự thể hiện hài hoà chứ không còn trong giai đoạn trau giồi.

 Một khoảnh khắc thôi đã là quá đủ

 Điều kỳ lạ nhất trong Phật học, và trong Thắng Pháp Tạng, là danh gọi các con người thánh đức là những người sơ đạo, người nhị đạo, người tam đạo, người tứ đạo. Những “chúng sanh” đó chỉ hiện hữu trong một sát na (một tích tắc có một ngàn tỷ sát na) vậy thì tại sao phải kể là một người, một bậc như bốn đôi, tám vị hay tứ song bát bối?

 Câu trả lời đơn giản: là vì trong sát na ngắn ngủi ấy hoàn toàn không giống con người trước kia và sát na đó mãi mãi không tái diễn sau nầy. Nhưng bật đèn sáng lên trong đêm có giây phút “rất ban sơ” được gọi là “xua tan bóng tối” rất ngắn ngủi. Từ đó trở đi không còn gọi là xua tan bóng tối mà chỉ là tiếp tục sáng.  Tuy khoảnh khắc ấy rất ngắn nhưng hiệu ứng vô cùng.

 Chặt đứt những cột trói vô hình

 Có 10 thứ phiền não được xem là giây cột trói hay kiết sử là: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, dục ái, sân, sắc ái, vô sắc ái, mạn, phóng dật và vô minh. Khi tâm đạo sanh khởi cùng lúc xẩy ra hai hiện tượng là: giác ngộ và giải thoát. Giác ngộ ở đây là chứng tri níp bàn. Giải thoát là chặt đứt giây kiết sử. Tuy hai sự việc có khác nhưng xẩy ra cùng lúc thí dụ nghe người ta đồn đại có loại hoa rất quý rất đẹp đang nở trong khu rừng. Nghe vậy trong lòng có chút nghi hoặc: Đẹp là sao? Quý là sao? Nhưng khi đến khu rừng vừa thấy đoá hoa đồng lúc nghi hoặc tan biến.

  


Chữ Đạo Phật thường được dùng để hiểu như nếp tín ngưỡng theo lời Phật dạy. Chữ đạo đó đồng nghĩa với tôn giáo. Mặc dù có xuất phát từ chữ magga nhưng đã hiểu rất khác với ý nghĩa nguyên thuỷ. Tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền người ta thường dùng chữ Buddhasàsana (Phật giáo) hơn là dùng chữ Đạo Phật. Người Tây Phương dùng chữ Buddhism là lối dịch thiếu hiểu biết từ lúc mới tiếp xúc với văn hoá phương. Nếu Ki Tô Giáo được gọi là Christianity mà Phật giáo dùng tiếp vĩ ngữ _ism thật là có vấn đề. Ngay cả trong văn hoá Trung Hoa và Việt Nam chữ đạo ban đầu dùng chỉ cho Đạo Lão (Taoism) sau nầy người ta dùng cho ý nghĩa “nếp tín ngưỡng tôn giáo” như đạo Cao Đài, đạo Tin Lành. Khôi hài nhất là ở Việt Nam những người theo Thiên Chúa Giáo La Mã (Catholic) gọi là “người theo đạo hay có đạo” (thoạt nghe thì người theo tôn giáo khác là “ngoại đạo” hay “vô đạo”)

  


  Thuật ngữ “đạo - marga” tại Ấn Độ được biết từ thời rất xa xưa khi các kinh điển Veda xuất hiện. Như vậy phải chăng thuật ngữ nầu phát xuất từ cội nguồn thiên trúc? Rất dễ để kết luận như vậy. Tuy nhiên Lão Tử viết Đạo Đức Kinh khi Phật giáo chưa truyền sang Trung Quốc (nhiều sử gia tin rằng Lão tử sanh sau Khổng tử và sanh trước Mạnh tử. Đây vẫn là vấn đề tồn nghi). Điều là lùng là cách Lão tử nói về “Đạo” rất có nhiều điểm giống với Tam Tạng Pàli như cứu cánh là vô vi, không nằm trong sự diễn tả của ngôn từ (đạo khả đạo phi thường đạo), đạo là cảnh giới cao nhất của minh triết. Tại sao có nhiều điểm trùng khớp vậy. Để giải thích cần nhiều dẫn chứng (…) Những học giả Tây Phương sau nầy tỏ ra không ngoan hơn không dịch chữ Đạo mà viết theo âm “Tao”. Hiểu đúng hay sai là trách nhiệm của người đọc.

 

 


Có những lúc chúng ta tìm một món đồ gì đó bị thất lạc. Càng tìm càng cố nhớ thì tìm không ra. Sau cơn bực bội chuyển sang làm việc khác tâm trí trở nên thanh thản rồi bất chợt nhìn thấy món đồ nằm sờ sờ trước mắt. Sự giác ngộ níp bàn đôi khi đến bất chợt không thông qua kiến văn quảng bác hay lý luận logic. Chỉ thấy và biết.

 

 

Tâm đạo trong định nghĩa cô đọng nhất là tâm có tám “chi đạo”

 

Tâm đạo có hai hiệu ứng cùng lúc là “giác ngộ níp bàn và giải thoát sự cột trói của kiết sử.

 

Chữ “đạo” được dùng phổ thông ngày nay như là nếp tín ngưỡng mang ý nghĩa rất xa với chữ đạo ở đây. Người học Phật cần cẩn thận về điều nầy.

 


Tâm Đạo- maggacitta-  trong biểu đồ chư pháp:







 


Bài học trước là: Tâm Siêu Thế

Bài học tiếp theo sẽ là: Các Thứ Tâm Đạo



II Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hành

T
     Thảo luận 1.Tại sao tâm sơ đạo “biết cái chưa từng biết” lại có thuộc tánh TƯỞNG (biết do kinh nghiệm từng biết)? - TT Tuệ Siêu

      Thảo luận 2. Tại sao các tâm quả như sơ quả, nhị quả, tam quả cũng chứng tri níp bàn nhưng không tạo hiệu ứng chặt đứt kiết sử như các tâm đạo? - TT Tuệ Siêu


 III Trắc Nghiệm