Giáo trình Thắng Pháp Abhidhamma
Ngày 21.10.2020
Bài 35
Nhóm Thuộc Tánh Tợ Tha Biến Hành
Cần nhắc lại là các thuộc tánh của tâm – cetasika- là những cơ phận hay thành tố của mỗi đơn vị cực vi của tâm (sát na tâm). Khi đề cập tới những thuộc tánh nầy nên hiểu theo cách vĩ mô chứ không phải nói theo tánh cách đại loại. Thí dụ bánh lái là bộ phận để điều hướng con tàu chứ không phải sự lái tàu của tài công.
Như đã đề cập, có ba loại thuộc tánh: tợ tha, bất thiện, tịnh hảo.
Tợ tha (Aññasamāna) đi với xấu thành xấu, đi với tốt thành tốt, đi với vô thưởng vô phạt thành trung tánh.
Biến hành (Sabbacittasādhāraṇa) nghĩa là có mặt trong tất cả.
Nhóm tợ tha biến hành có mặt trong tất cả tâm. Những ý nghĩa của nhóm thuộc tánh nầy đặc biệt quan trọng để hiểu về tâm pháp theo Thắng pháp Abhidhamma. Có tất cả 7 thuộc tánh tợ tha biến hành:
Thuộc tánh xúc (phassa) là cơ phận môi giới để tâm tiếp xúc với cảnh. Thí dụ tâm như một công ty thì thuộc tánh xúc như người để liên hệ (contact person) hay nếu tâm như con thuyền thì xúc như những trái độn treo trên mạn thuyền là cái nhận sự va chạm giữa con thuyền và bến đậu. Không nên hiểu xúc là sự gặp gỡ giữa căn, cảnh và thức như trong lý duyên khởi. Thuộc tánh xúc ở đây là một cơ phận của tâm.
Thuộc tánh thọ (vedanā) là cơ phận cảm biến sơ bộ khi tâm tiếp xúc với cảnh. Thí dụ tâm như một công ty thì thuộc tánh thọ như người làm ở bàn tiếp tân (reception) với khả năng nhận diện và xử lý trong chừng mực sơ khởi. Sớ giải thường dùng thí dụ như ngự trù nếm thực phẩm khi nấu cho vua: chỉ nếm để biết hương vị chứ không phải thưởng thức như nhà vua.
Thuộc tánh tưởng (saññā) là cơ phận đánh dấu và nhận biết cảnh qua ấn tượng. Thí dụ tâm như một công ty thì thuộc tánh tưởng như nhân viên lưu hồ sơ về khách
và nhận biết nhờ lục hồ sơ. Chính thuộc tánh nầy đóng vai trò hấp thụ, ký tính của tâm thức.
Thuộc tánh tư (Cetanā) là cơ phận chủ suý tạo tác. Thí dụ tâm như một công ty thì thuộc tánh tư giống như viên chức đề xuất chính sách hay giám đốc điều hành. Chính thuộc tánh nầy được xem trọng điểm của nghiệp và cũng có thể thể như vai trò của ý chí trong cuộc sống
Thuộc tánh nhất hướng (Ekaggatā) là cơ phận “gom lùa” các pháp đồng sanh cùng hướng vào một đối tượng. Có thể thí dụ chức năng của thuộc tánh nhất hướng như vai trò của một “whip” ở trong quốc hội Hoa Kỳ là làm sao các nghị viên cùng một đảng cùng tập chú vào một chương trình hành động. Trong sự tu tập tinh luyện nhất hướng trở thành định lực, một thiền chi quan trọng.
Thuộc tánh mạng quyền (Jīvitindriya) là cơ phận duy trì sự tồn tại. Thí dụ tâm như một công ty thì thuộc tánh mạng quyền như một phó giám đốc nội vụ chịu trách nhiệm về sự sống còn của guồng máy.
Thuộc tánh tác ý (manasikāra) là cơ phận hướng tâm vào một tiêu điểm của cảnh. Chữ tác ý ở đây mặc dù dịch sát với văn tự nhưng dễ tạo ngộ nhận trong ngôn ngữ tiếng Việt (…). Dịch đúng nghĩa là chữ tiêu cự (focus) nghĩa là lấy một điểm trong toàn cảnh. Thí dụ tâm như một công ty PR thì thuộc tánh tác ý như một viên chức ngoại vụ quyết định đối tượng nào nên nhắm tới trong hoạt động.
Bảy thuộc tánh tợ tha biến hành có nhiều vai trò cốt lõi trong sự vận hành của tâm thức. Khi liệt kê thì như nhau như nói về vai trò thì thuộc tánh thọ là thọ uẩn, thuộc tánh tưởng là tưởng uẩn, những thuộc tánh còn là thuộc hành uẩn – mà trong đó - thuộc tánh tư là chủ đạo.
Khi học về các thuộc tánh của tâm, cũng như đa phần trong Thắng Pháp, những thuật ngữ thường được hiểu theo từ vựng Hán Việt của cổ văn. Những chữ thọ, tưởng, tư… nên được định nghĩa theo lãnh vực chuyên môn chứ không nên dùng giải thích ngôn ngữ theo thường thức. Ngay cả đối với người Trung Hoa thì ý nghĩa của những từ ngữ nầy của thay đổi theo thời gian. Thí dụ chữ saññā dịch là “tưởng” trong chữ Hán được người Anh dịch là perception hay perceiving (nhận thức) trong lúc người Việt bình thường thì chữ tưởng được hiểu là thấy cái
nầy nghĩ là cái kia (như trông gà hoá cuốc). SỰ TINH XÁC LÀ YÊU CẦU QUAN TRONG Ở ĐÂY.
Khi đi vào ý nghĩa những thuộc tánh nầy người học nên lưu ý những ý nghĩa căn bản tinh xác nhất hơn là “tán rộng” vì sẽ dễ dàng lạc sang những ý tưởng ngoài đề. Đa số các giáo trình Thắng Pháp khi giải về bảy thuộc tánh tợ tha biến hành thường là “những sưu tập hỗn độn” kinh văn khiến người học hiểu sai về tánh cách vĩ mô của xúc, thọ, tưởng, tư ….
Phân chia thuộc tánh :
PHÂN CHIA CÁC THUỘC TÁNH TÂM
Phân loại Phân nhóm Thuộc tánh
Thuộc Tánh
của Tâm
(Cetasika) Tợ tha Tợ tha biến hành Xúc Thọ Tưởng Tư Định Mạng quyền Tác ý Biệt cảnh Tầm Tứ Thắng giải Cần Hỷ Dục Si phần (bất thiện biến hành) Si Vô tàm Vô quý Phóng dật Tham phần Tham Tà kiến
Bất thiện Ngã mạn Sân phần Sân Tật Lận Hối Hôn phần Hôn trầm Thùy miên Nghi phần Hoài nghi Tịnh Hảo Tịnh hảo biến hành Tín Niệm Tàm Quý Vô tham Vô sân Hành xả Tịnh thân Tịnh tâm Khinh thân Khinh tâm Nhu thân Nhu tâm Thích thân Thích tâm Thuần thân Thuần tâm Chánh thân Chánh tâm Giới phần Chánh ngữ Chánh nghiệp Chánh mạng Vô lượng phần Bi Tuỳ hỷ Tuệ phần Trí tuệ
Bài học trước là: Phân Chia Thuộc Tánh Của Tâm
Bài học tiếp theo sẽ là: Nhóm Thuộc Tánh Tợ Tha Biệt C
No comments:
Post a Comment